Mạng giá trị gia tăng VAN

     Như vậy, ngay cả trước khi có Internet đã có trao đổi dữ liệu điện tử. Khi đó người ta dùng “mạng giá trị gia tăng” (VAN – Value Added Network) để liên kết các đối tác trao đổi dữ liệu điện tử với nhau. Cốt lõi của VAN là một hệ thông thư điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc được với nhau, và hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm kiếm. Khi nối vào VAN, một doanh nghiệp có thể liên lạc với nhiêu máy tính điện tử nằm ở nhiều thành phố trên khắp thế giới.

Mạng giá trị gia tăng VAN

     Nhà cung cấp dịch vụ duy trì VAN với một hộp thư cho mọi thành viên tham gia kinh doanh và trên cơ sở đó lưu trữ, chuyển tiếp các bức thư điện tử trao đổi dữ liệu điện tử giữa họ. Mọi công ty dùng trao đổi dữ liệu điện tử phải chấp thuận sử dụng mẫu biểu với dung lượng theo qui định trong khi kinh doanh trên trao đổi dữ liệu điện tử. Mẫu này được truyền qua thư điện tử trên VAN. Mỗi thành viên tham gia phải chạy phần mềm dịch trao đổi dữ liệu điện tử trên máy tính của họ để chuyển dữ liệu trao đổi dữ liệu điện tử sang dạng được dùng bởi cơ sở dữ liệu của chính họ.

     Tuy nhiên, trao đổi dữ liệu điện tử trên VAN kém thích hợp đối với hệ thông các tổ chức ảo và các mối quan hệ biến đổi nhanh chóng, điều đang trở thành tiêu chuẩn trong kinh doanh ngày nay. Trước đây, phần lớn các giao dịch trao đổi dữ liệu điện tử được thỏa thuận và thực hiện qua TPA (Trading Partner Agreement), ở đó nó thực hiện quá trình trao đổi dữ liệu từng bước một. Thực hiện thỏa thuận, sau đó kết thúc liên lạc là một quá trình tốn kém và chậm chạp, nhất là so với các tiêu chuẩn kinh doanh đặt ra thời nay.



Khái niệm trao đổi dữ liệu điện tử

        Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI – Electronic Data Interchange) là công nghệ cho phép trao đổi trực tiếp dữ liệu có cấu trúc giữa các máy tính thông qua phương tiện điện tử.

        Hiểu một cách đơn giản hơn, trao đổi dữ liệu điện tử chính là việc trao đổi dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc” (structured form), (có cấu trúc nghĩa là các thông tin được trao đổi giữa các đối tác thỏa thuận với nhau tuân thủ theo một khuôn dạng nào đó) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác, giữa các doanh nghiệp hoặc các đơn vị đã thỏa thuận buôn bán với nhau, theo cách này sẽ tự động hóa hoàn toàn không cần có sự can thiệp của con người.

       Trao đổi dữ liệu điện tử bao hàm những qui trình đảm bảo cho hình thức truyền thông này an toàn hơn. Ngoài khả năng nhận dạng, kỹ thuật này còn có thể hỗ trợ phát hiện và sửa lồi. Chứng thực theo hướng xác nhận nội dung dữ liệu có thể được thực hiện và tính cá nhân có thể trong trao đổi dữ liệu điện tử bởi một sốphương tiện tích hợp trong hệ thông. Chứng thực người được quyền gửi thông điệp cũng được đảm bảo.

Khái niệm trao đổi dữ liệu điện tử

         Trao đổi dữ liệu điện tử có thể được sử dụng để truyền theo đường điện tử các tài liệu như hoá đơn, phiếu đặt hàng, giấy biên nhận, các tài liệu vận chuyển và các thư từ trao đổi nghiệp vụ chuẩn khác giữa các tổ chức và các đối tác kinh doanh. Trao đổi dữ liệu điện tử cũng có thể được sử dụng để truyền thông tin tài chính và thanh toán dưới dạng điện tử, thường được gọi là chuyển tiền điện tử (EFT – Electronic Funds Transfer). Do đó, ngày nay, các chức năng của trao đổi dữ liệu điện tử càng trở nên có ý nghĩa hơn, đặc biệt với sự phát triển của thương mại điện tử trên thế giới.

        Song, để có thể áp dụng trao đổi dữ liệu điện tử rộng rãi cần phải có các chuẩn, và thực tế đã có nhiều chuẩn quốc tế được xây dựng. Bởi vì, trong hầu hết các trường hợp, một doanh nghiệp phải giao tiếp với rất nhiều đối tác thương mại. Ví dụ, trong ngành Công nghiệp bán lẻ, một siêu thị trung bình có thể phải làm việc với hàng trăm nhà cung cấp khác nhau. Mỗi nhà cung cấp lại có rất nhiều khách hàng. Nếu mỗi nhà cung cấp lại có các giao thức riêng của họ để cung cấp thông tin thì họ rất khó thực hiện trao đổi dữ liệu điện tử để trao đổi thông tin và giao dịch do phải yêu cầu chuyển đổi định dạng.

        Kết quả là chi phí thực hiện trao đổi dữ liệu điện tử sẽ tăng và làm giảm hiệu quả. Như vậy, nhu cầu xác định chuẩn là rõ ràng để đảm bảo thành công của trao đổi dữ liệu điện tử. Đó là vì trao đổi dữ liệu điện tỏ dựa vào việc sử dụng cấu trúc và diễn giải chuẩn của các giao dịch kinh doanh điện tử để thực hiện việc trao đổi dữ liệu giữa tất cả các đối tác thương mại, vì vậy có thể giảm lỗi trong việc truyền dữ liệu dù có dùng đến hệ thống máy tính hay không. Có hai chuẩn chính được sử dụng rộng rãi

       Ngày nay, đó là các tiêu chuẩn ANSI ASC X12 và các tiêu chuẩn EDIFACT của Liên Hợp quốc. Các chuẩn này định nghĩa các yên cầu cú pháp cho rất nhiều kiểu giao dịch trao đổi dữ liệu điện tử, Và hầu như các giao dịch trao đổi dữ liệu điện tử đều có thể được giải quyết theo những chuẩn này.


Đọc thêm tại:

Thư tín điện tử

      Các đối tác (người tiêu thụ, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ) sử dụng hòm thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạng, gọi là thư tín điện tử (E-mail – Electronic mail). Đây là một thứ thông tin ở dạng “phi cấu trúc” (unstructured form), nghĩa là thông tin không phải tuân thủ một cấu trúc đã thỏa thuận trước (là điều khác với “trao đổi dữ liệu điện tử” sẽ nói dưới đây).

        Đối với nhiều người sử dụng Internet, E-mail là khía cạnh quan trọng nhất và là một phương tiện dược người ta sử dụng  nhiều nhất. Các thồng báo E-mail có thể giông như các biên bản ghi nhớ hơn là thư bưu điện. Một thông báo có thể dễ dàng được sao chép sang những người sử dụng khác. Và khi nhận được một thông báo đến, người sử dụng có thể đính kèm thư trả lời của mình vào nó hoặc chuyển nó sang một người thứ ba. Người sử dụng cũng có thể đính kèm các tài liệu và các tệp tin đồ họa vào các thông báo E-mail.

Thư tín điện tử

        Sở dĩ E-mail được ưu ái như vậy là bởi vì nó mang lại sự thuận tiện, nhanh chóng, rẻ tiền cùng với sự tin cậy cho người sử dụng. Thực vậy, khi người sử dụng gửi một thông báo nào đó, thường nó sẽ được gửi đi ngay lập tức và hầu như không tôn chi phí nào cả hoặc nếu có thì rất nhỏ. Các phần đính kèm có thể làm giảm đi tốc độ các hoạt động trên mạng khác của người sử dụng, nhưng dù sao sử dụng E-mail cũng là một cách rẻ tiền để gửi đi các tài liệu. Thêm vào đó, cần phải nói thêm rằng E-mail là tương đốiđáng tin cậy. Thường thì E-mail rất ít khi gặp sự cố trong việc truyền tải thông tin. Nếu người sử dụng phạm một sai sót nào đó trong khi gửi thông báo thì nó sẽ gửi trả lại người sử dụng thông báo đó, trừ khi việc sai sót trong khi điền địa chỉ nhận đã biến nó thành một địa chỉ thật của một người sử dụng khác.

         Ngày nay, mỗi cá nhân có thể dùng E-mail từ nhiều nguồn: Hoặc là dùng E-mail miễn phí của các nhà cung cấp tài khoản E-mail miễn phí (điển hình là 2 “đại gia” Yahoo và Hotmail), hoặc nếu cá nhân đó có Website riêng thì họ có thể tạo cho mình những E-mail có địa chỉ tên miền (domain) là tên miền của Website của mình. Bằng cách này, cá nhân hoặc doanh nghiệp đã tận dụng được cơ hội tốt đê quảng bá tên miền của Website của mình.



Hạn chế của thương mại điện tử

         Bên cạnh các lợi ích đem lại cho các công ty và cá nhân, thương mại điện tử cũng có những khuyết điểm của nó và những rủi ro chủ yếu đến với các hãng khi tham gia thương mại điện tử. Có hai loại hạn chế của thương mại điện tử, một nhóm mang tính kỹ thuật, một nhóm mang tính thương mại.

         Về mặt an toàn

        Các vấn đê về gian lận của khách hàng, sự tiếp cận của những người truy cập bất hợp pháp, các thông tin có thể gây hại và vấn đề an ninh của các nhà cung cấp dịch vụ Internet cũng như nhu cầu bảo mật về các thông tin cá nhân và thông tin tuyệt mật. Các vấn đề này đời hỏi các giải pháp của Chính phủ và giải pháp thương mại.

      Vấn đề an toàn được đặt lên hàng đầu khi bắt đầu liên hệ với đối tác. Thông tin truyền đi qua Internet có thể bị ngàn chặn. Nếu thông tin đó có cả kèm thông tin thẻ tín dụng thì rất dễ bị mất. Điểu bảo đảm an toàn duy nhất là sở dụng thông tin mật mã và quan hệ với các công ty có danh tiếng.

Hạn chế của thương mại điện tử

           Các vấn đề khác

-      Chưa có tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn và độ tin cậy

-    Tốc độ đường truyền Internet vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của người dùng, nhất là trong thương mại điện tử.

-      Các công cụ xây dựng phần mềm vẫn trong giai đoạn đang phát triển.

-    Khó khăn khi kết hợp các phần mềm thương mại điện tử với các phần mềm ứng dụng và các cơ sở dữ liệu truyền thống.

-     Cần có các máy chủ thương mại điện tử đặc biệt (công suất, an toàn) đời hỏi thêm chi phí đầu tư.

-     Chi phí truy cập Internet vẫn còn cao.

-     Thực hiện các đơn đặt hàng trong thương mại điện tử  đòi hỏi hệ thống kho hàng tự động lớn.



Hạn chế về an ninh và riêng tư trong thương mại điện tử

          An ninh và riêng tư là hai cản trở về tâm lý đối với người tham gia thương mại điện tử. Vấn để bảo mật an ninh trên mạng là một trong những vấn đề nóng hổi trong hoạt động thực tiễn của thương mại điện tỏ. Liệu khách hàng có tin tưởng khi thực hiện các dịch vụ trên mạng không, liệu các nhà cung cấp dịch vụ giao dịch trực tuyến cũng như các ISP có đảm bảo những thông tin của khách hàng giao dịch trên mạng được an toàn không?

Hạn chế về an ninh và riêng tư trong thương mại điện tử

          Mua hàng trực tuyến không hề mạo hiểm hơn so với việc đặt hàng qua điện thoại. Song những vụ bán đấu giá trực tuyến lại thường gặp phải một số rủi ro. Tháng 11/2002, chỉ trước khi mùa lễ hội bắt đầu, Hiệp hội phần mềm doanh nghiệp đã diều tra hơn 1.000 người sử dụng Internet về những kế hoạch mua hàng trực tuyên của họ. Mặc dù 71% số người được điều tra nói rằng họ sẽ mua một vài thứ trên mạng trong mùa lễ hội nhưng trong số đó hơn 1/3 số người lo ngại về việc sử dụng số thẻ tín dụng trên Internet và hơn một nửa nói rằng họ sợ các thông tin về thẻ tín dụng của họ bị đánh cắp từ một cơ sở dữ liệu của người bán trên Web.

            Vậy, có cần phải lo lắng không? Tất nhiên là có. Cơ sở dữ liệu người bán và cơ sở dữ liệu tài chính được coi là mục tiêu chính của những kẻ trộm cắp. Thêm vào đó, những nhân viên xấu sẵn sàng bán những gì mà họ có thể ăn cắp được. Tham gia những cuộc bán đâu giá trên mạng hiện đang gặp rủi ro nhiều hơn việc mua hàng trên mạng một phần là do sự không hạn chế của doanh thu bán đấu giá và một phần cũng là do những kẻ bất lương nhanh chóng bày ra những mưu đồ mới khi những mánh khóe cũ bị lộ.



Lợi ích xã hội của thương mại điện tử

        Ngoài các lợi ích cho các doanh nghiệp và bản thân những người tiêu dùng, thương mại điện tử còn mang lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế quốc gia và cho xã hội.

 Giảm ách tắc và tai nạn giao thông

      Nền tảng của thương mại điện tử là mạng máy tính, trên toàn thế giới đó là mạng Internet và phương tiện truyền thông hiện đại như vệ tinh viễn thông, cáp, vô tuyến, các phương tiện điện tử khác v.v… Do phát triển của hệ thông mạng máy tính, mọi việc đều có thể xử lý và giải quyết trên mạng tại nhà, do vậy, ngoài phố sẽ vắng người và phương tiện giao thông, như vậy tai nạn giao thông sẽ ít hơn trước nhiều, đồng thời giảm ô nhiễm môi trường.

Lợi ích xã hội của thương mại điện tử

Nâng cao mức sống và tăng phúc lợi xã hội

      Cho phép một số người bán hàng có thể bán ở mức giá thấp hơn, giảm tình trạng tích trữ hàng hoá và nâng cao mức sông của người dân; Giúp cho các nước thế giới thứ ba cũng như các vùng xa xôi hẻo lánh có thể biết đến những sản phẩm và dịch vụ mà thường không phải dành cho những thị trường này (bao gồm cả các dịch vụ giáo dục và đào tạo). Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phân phối các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, và các dịch vụ xã hội của Chính phủ với giá ưu đãi và chất lượng cao. Ví dụ như các dịch vụ y tế được đưa tối vùng sâu vùng xa để phục vụ người dân nông thôn.


Đọc thêm tại:

Thương mại điện tử tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc gia hội nhập nềnkinh tế thế giới

      Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành chính sách kinh tế đôi ngoại nhất quán của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Mục tiêu chính của quá trình hội nhập này là nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đáp ứng yêu cầu và lợi ích của quốc gia, đồng thòi thông qua hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy vai trò và tiềm năng của đất nước trong quá trình hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới, tranh thủ các nguồn vốn, thiết bị, vật tư, thành tựu khoa học – công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, mồ rộng thị trường tăng cường quan hệ hợp tác cùng có lợi, làm cho mỗi quốc gia phát triển ngày càng nhanh và bền vững hơn.

        Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Đây là một xu thế khách quan, xu thế của thời đại, đang lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Một quốc gia cũng không thể biệt lập, đứng ngoài xu thế này.

Thương mại điện tử tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc gia hội nhập nềnkinh tế thế giới

        Một trong những đặc điểm của quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế, đó là sự xuất hiện và có phần lũng loạn các tập đoàn kinh tế đa quốc gia và xuyên quốc gia. Ngày nay, có khoảng 60.000 tập đoàn kinh tế đa quốc gia và xuyên quốc gia của các nước phát triển cùng với hơn 500.000 chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới đang là xương sống của quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Các tập đoàn kinhtế này, với tham vọng thôn tính các doanh nghiệp nội địa đang có xu hướng sáp nhập để cùng nhau thông trị và chia sẻ lợi ích từ nền kinh tế thế giới. Việc mất thị phần ngay cả trên thị trường nội địa cũng đã xảy ra đối với nhiều doanh nghiệp. Trong bối cảnh như vậy, để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, kể cả nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế, cần phải có các giải pháp phù hợp để đối phó với các nguy cơ này.

      Cùng với xu thế toàn cầu hoá kinh tế, khoa học và công nghệ trên thế giới đang có những bước tiến nhảy vọt đáng kể. Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã dẫn đến việc xuất hiện nền kinh tế tri thức, thương mại điện tử ở nhiều nước trên thế giới. Những biến đổi đáng kể về chất của tiến bộ khoa học đã và đang làm thay đổi dần vị trí, vai trò của các chủ thể trong những mối quan hệ kinh tế – xã hội theo hướng kết hợp và cởi mở hơn.

     Đặc biệt, sự phát triển của thương mại điện tử sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin, khai phá dữ liệu và phát hiện tri thức. Lợi ích này có một ý nghĩa lớn đôi với các nước đang phát triển: Nếu không nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức thì sau khoảng một thập kỷ nữa, các nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang tính chiến lược công nghệ và tính chính sách phát triển cần cho các nước công nghiệp hóa. Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, sớm chuyển sang kinh tế tri thức có thể giúp một nước đang phát triển tạo được một bước ngoặt phát triển, tiến kịp các nước đi trước với thời gian ngắn hơn.



Thương mại điện tử góp phần làm khách hàng hài lòng hơn

        Thật vậy, sự vận động của các phương tiện điện tử đặc biệt là mạng Internet đã mang lại cho khách hàng, những người tiêu dùng và cả các doanh nghiệp khả năng tiếp cận với các chào hàng sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp trên toàn thế giới. Điều này có nghĩa là sự lựa chọn về sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu mua sắm của họ được md rộng ra rất nhiều và các doanh nghiệp phải đối diện với cạnh tranh nhiều hơn. Như vậy, muốn cạnh tranh tốt, các doanh nghiệp cần phải xác định một cách chính xác, đầy đủ hơn về nhu cầu của khách hàng đồng thời phải tiến tới cá biệt hoá sản phẩm và dịch vụ của mình để đáp ứng tốt hơn các nhu cầu cá biệt của khách hàng.

       Sự chuyển lực về phía khách hàng kéo theo sự biến động thực sự về mô hình kinh tế. Các doanh nghiệp đã chuyển từ mô hình tối ưu hoá nhờ công tác tiêu chuẩn hoá và sản lượng sang mô hình tối ưu hoá quá trình sản xuất phân phối nhằm đáp ứng tốt nhất những thị trường tập trung, thậm chí là các nhu cầu cá nhân. Rõ ràng, khi ứng dụng thương mại điện tử, khách hàng sẽ là người được hưởng lợi.

Thương mại điện tử góp phần làm khách hàng hài lòng hơn

       Như ta đã phân tích, thương mại điện tử giúp cho các doanh nghiệp mang lại dịch vụ tốt hơn cho khách hàng. Mà khi dịch vụ khách hàng của doanh nghiệp được thực hiện tốt hơn thì cũng có nghĩa là giá trị mà doanh nghiệp mang lại cho khách hàng là nhiều hơn. Điều này góp phần làm tăng sự hài lòng của khách hàng về sản phẩm, dịch vụ và doanh nghiệp cung ứng.

       Ngoài ra, như đã đề cập ở trên, thương mại điện tử giúp cho khách hàng dễ dàng hơn trong việc lựa chọn sản phẩm, dịch vụ và cũng làm cho họ tiết kiệm được các chi phí mua hàng bao gồm cả các chi phí về tiền và thời gian. Sự thuận lợi và tiết kiệm hơn của quá trình mua hàng sẽ làm khách hàng hài lòng khi thực hiện việc mua hàng qua mạng.



Thương mại điện tử giúp khách hàng có thể tiết kiệm chi phí mua hàng

        Theo quan điểm của Philip Kotler – một nhà Marketing nổi tiếng, tổng chi phí của khách hàng khi mua và tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ được hiểu là toàn bộ những hao phí, những phí tổn mà khách hàng phải bỏ ra để có được sản phẩm, dịch vụ. Các hao phí này không chỉ gồm những chi phí về tiền để mua và tiêu dùng hàng hoá mà ta vẫn thường hiểu mà còn cả những chi phí về thời gian, sức lực và tinh thần mà người mua đã bỏ ra để có được sản phẩm, dịch vụ.

        Trong thương mại truyền thông, để mua được sản phẩm và dịch vụ mong muôn, đôi khi khách hàng phải trả rất nhiều khoản chi phí về tiền. Đó có thể là những chi phí để tìm kiếm thông tin về sản phẩm, dịch vụ về nhà cung ứng: chi phí điện thoại, đi lại để khảo hàng… Rồi sau đó là những chi phí để mua hàng ngoài chi phí mua sản phẩm, dịch vụ như là chi phí đi lại, vận chuyên… Thê nhưng với thương mại điện tử những chi phí này được giảm đi cho khách hàng. Ví dụ như chỉ với một khoản chi phí nhỏ truy nhập Internet, khách hàng có thể khảo rất nhiều loại hàng trên Internet mà không cần phải gọi điện đến tận công ty hay đi khảo hàng trực tiếp tại các cửa hàng. Ngoài ra, với một số mặt hàng có thể truyền gửi trực tiếp qua mạng như sách điện tử, bài hát, đĩa nhạc, báo điện tử… khách hàng cũng không cần phải đến tận cửa hàng để mua mà có thể mua trực tiếp từ máy tính cá nhân nối mạng Internet của mình và không phải trả chi phí vận chuyển…

        Và trên thực tế, giá bán sản phẩm, dịch vụ qua mạng nhìn chung là có xu hướng rẻ hơn là giá bán sản phẩm, dịch vụ tại các cửa hàng. Điều này là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì kinh doanh trên mạng giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm rất nhiều loại chi phí so với trong thương mại truyền thông trong đó phải kể đến là chi phí thuê văn phòng, cửa hàng, chi phí tiếp thị… Đây chính là cơ sở để doanh nghiệp có thể giảm giá bán sản phẩm, dịch vụ của mình khi thực thi thương mại điện tử. Khi giá bán sản phẩm, dịch vụ giảm thì khách hàng sẻ là những người hưởng lợi vì chi phí mua hàng của họ được giảm đi.

Thương mại điện tử giúp khách hàng có thể tiết kiệm chi phí mua hàng

          Cuối cùng và điều quan trọng là thương mại điện tử giúp khách hàng tiết kiệm được rất nhiều thời gian để mua hàng. Chỉ với một máy tính cá nhân nối mạng Internet và trong điềukiện cho phép của thương mại điện tử, khách hàng có thể thực hiện một cách nhanh chóng bằng những lần nhấn chuột toàn bộ qui trình mua hàng thường được thực hiện một cách tốn kém thời gian trong thương mại điện tử từ khâu khảo hàng, xem xét, so sánh và thanh toán. Như vậy, với thương mại điện tử, khách hàng có thể tiết kiệm rất nhiều thời gian để mua một mặt hàng nào đó và có thể dành thời gian cho những công việc khác. Khi thương mại điện tử thực sự trỏ thành phương thức kinh doanh phổ biến, khách hàng không còn cảnh thiếu thông tin về sản phẩm, dịch vụ muôn mua, mất nhiều thời gian đi khảo hàng, di chuyển đến cửa hàng mua hàng và vận chuyển hàng về nữa.



Thương mại điện tử giúp khách hàng dễ dàng hơn trong việc chọn lựa sảnphẩm, dịch vụ

       Có thể nói thương mại điện tử là một kênh phân phối mới, một kênh thông tin bổ sung quan trọng giúp khách hàng tiếp cận với doanh nghiệp, với sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Giờ đây, chỉ với chiếc máy tính cá nhân nối mạng Internet, khách hàng có thể tiếp xúc với rất nhiều chào hàng sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp trên toàn thế giới.

       Như vậy, quá trình đi đến quyết định mua hàng của khách hàng đã có thể cải thiện và rút ngắn do giai đoạn tìm kiếm thông tin về sản phẩm, dịch vụ có thể đáp ứng nhu cầu của bản thân khách hàng sẽ được thực hiện tốt hơn trong thương mại điện tử. Nếu như trong thương mại truyền thống, cản trở về thời gian, không gian, sự chậm trễ và thiếu thông tin có thể làm cho sự lựa chọn và quyết định mua của khách hàng là không tối ưu thì trong thương mại điện tử, việc có nhiều thông tin (như về giá cả, tính năng, dịch vụ kèm thêm…) về chủng loại sản phẩm, dịch vụ cần tìm làm khách hàng dễ dàng hơn trong việc lựa chọn chính xác nhãn hiệu sản phẩm, dịch vụ và doanh nghiệp cung cấp cho mình.

Thương mại điện tử giúp khách hàng dễ dàng hơn trong việc chọn lựa sảnphẩm, dịch vụ

       Thêm vào đó, sự lựa chọn sản phẩm, dịch vụ và doanh nghiệp cung ứng của khách hàng cũng không bị bó hẹp trong phạm vi một khu vực địa lý nhất định mà đã được mở rộng sang phạm vitoàn quốc, khu vực và quốc tế (phụ thuộc điều kiện có thể đáp ứng cho hoạt động mua bán qua mạng).

       Đúng vậy, chỉ với một thẻ tín dụng, giò đây, một độc giả Việt Nam hoàn toàn có thể mua trực tiếp một cuốn sách xuất bản tại Pháp trong thời gian ngắn nhất mà không phải đợi chờhay làm các thủ tục đặt mua và thanh toán phiền hà. Hay một người tiêu dùng có thể đặt mua trực tiếp một chiếc máy tính xách tay hay ca-mê-ra tại Mỹ thay vì mua sản phẩm đó tại thị trường Việt Nam với nỗi lo hàng bán tại Việt Nam có thể không được đảm bảo chất lượng như hàng do mình lựa chọn và đặt mua trực tiếp tại Mỹ.


Đọc thêm tại:

Thương mại điện tử tạo cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp bưu chính

    Sự phát triển mạnh mẽ của Internet nói chung và thương mại điện tử nói riêng làm cho lưu lượng và cơ cấu tỷ trọng các loại bưu gửi trong tương lai sẽ thay đổi rất mạnh. Có thể nói rằng Internet sẽ tác động đến Bưu chính theo hai góc độ. Một mặt là thách thức đối với bưu chính khi nhiều loại hình dịch vụ ra đời thay thê cho bưu chính truyền thông như thư điện tử, thanh toán điện tử, quản lý điện tử… Tuy nhiên, ở góc độ tích cực, thương mại điện tử sẽ làm cho thị trường bưu kiện, hàng nặng (CP), dịch vụ kho vận (Warehouse and Fulfillment) tăng trưởng mạnh, thị trường thư khổ lớn (Flat) cũng sẽ tảng (do các tài liệu giao dịch về tài chính tăng) cùng với việc tăng trưởng thị trường tài chính bưu chính.

    Thật vậy, khi mua hàng qua mạng, khách hàng mong muốn rằng chỉ bằng những lần nhấn chuột đặt hàng rồi thanh toán, họ sẽ có thể nhận được sản phẩm và dịch vụ mua đúng thòi hạn cam kết, đúng người nhận. Chính vì vậy, bất kỳ doanh nghiệp nào kinh doanh trong lĩnh vực thương mại điện tử đều phải chú ý đến công tác kho vận của mình, đặc biệt về thòi hạn và chất lượng vận chuyển. Có thể nói rằng công tác kho vận thực sự trở thành một bộ phận cấu thành của sản phẩm, dịch vụ bán qua mạng và là một tiêu chuẩn trong đánh giá chất lượng sản phẩm, dịch vụ được bán qua mạng. Mà chất lượng sản phẩm, dịch vụ vẫn luôn là yếu tố hàng đầu để đảm bảo thành công của thương mại điện tử.

Thương mại điện tử tạo cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp bưu chính

     Để đảm bảo chất lượng và thời gian vận chuyển, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử có xu hướng cần đến các dịch vụ vận chuyển và kho vận của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận chuyển và kho vận chuyên nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Bưu chính. Như vậy, rõ ràng đây là cơ hội rất lớn đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ vận chuyển bưu kiện và dịch vụ kho vận của ngành Bưu chính. Thêm vào đó, khi thương mại điện tử phát triển, các giao dịch (đặc biệt là giao dịch tài chính) giữa các doanh nghiệp và giữa doanh nghiệp với khách hàng của họ ngày càng tăng, vì vậy thị trường bưu phẩm truyền thông cũng có phần hưởng lợi.

    Tuy nhiên, sự phát triển của thương mại điện tử như vậy cũng đặt ra cho Bưu chính các nước những thách thức phải đối đầu mà đặc biệt là sự nắm bắt những lợi thế do Internet tạo ra để tìm kiếm các cơ hội kinh doanh mới cũng như mỏ rộng thị phần, nâng cao hiệu quả kinh doanh hiện tại cho Bưu chính.



Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp tăng được lợi thế cạnh tranh

     Có thể nói rằng việc kinh doanh trên mạng là một “sân chơi” cho sự sáng tạo, nơi đây, doanh nghiệp tha hồ áp dụng những ý tưởng hay nhất, mói nhất về dịch vụ hỗ trợ, chiến lược tiếp thị v.v… Và một khi tất cả các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp đều áp dụng thương mại điện tử thì phần thắng sẽ thuộc về ai sáng tạo hay nhất để tạo ra nét đặc trưng cho doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ của mình để có thể thu hút và giữ được khách hàng.

      Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thương mại điện tử còn giúp họ có thêm cơ hội để cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn. Bởi vì thương mại điện tử cung cấp cho các doanh nghiệp một môi trường bình đẳng cho phép các doanh nghiệp dễ dàng cung cấp cho khách hàng sự hiện diện toàn cầu:

Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp tăng được lợi thế cạnh tranh

+ Internet có xu thế tạo lợi nhuận cho cả công ty lớn và nhỏ. Một sự hiện diện Internet có thể dễ dàng thiết lập đối với cả các công ty lớn cũng như công ty nhỏ. Vì sân chơi bình đẳng hơn nên tính theo tỷ lệ thì Internet thuận lợi hơn với các công ty nhỏ. Cách quản lý sáng tạo và linh hoạt của các doanh nghiệp nhỏ là ưu thế cạnh tranh trong thế giới Internet luôn thay đổi.

+ Cũng do sân chơi bình đẳng hơn trên Web nên các doanh nghiệp nhỏ có Website có thể tạo ra một lượng doanh thu như ỏ các doanh nghiệp lớn hơn. Nói một cách tương đối, một lượng doanh thu trị giá 01 triệu đô-la Mỹ có thể làm tăng gấp đôi lợi nhuận của một doanh nghiệp nhỏ nhưng đối với một doanh nghiệp lớn thì lại có thể coi là không đáng kể.

+ Các doanh nghiệp nhỏ chấp nhận mô hình thương mại điện tử được hưởng lợi với thị phần tăng lên. Các doanh nghiệp lớn thông thường chỉ tìm kiếm lợi ích từ một trang thương mại điện tử khi một công ty nhỏ và thông thường là vô danh đã dành mất thị phần. Trên Internet, việc xây dựng và duy trì một trang tin điện tử có tính chất chuyên nghiệp không phải là điều khó khăn. Một công ty nhỏ sử dụng Internet như là kênh phân phối chủ yếu cung cấp các dịch vụ sáng tạo và sự hỗ trợ nhanh chóng. Một doanh nghiệp nhỏ sẽ dễ dàng hơn trong việc thay đổi cơ sở hạ tầng bên trong để thích ứng với những nhu cầu mới của thương mại trực tuyến. Các doanh nghiệp lớn thường có các cơ cấu chậm hơn và quan liêu hơn ỏ vào thê bất lợi hơn. Khi Internet phát triển và làm thay đổi bộ mặt của doanh nghiệp, các doanh nghiệp lớn cần phải thay đổi cơ sở hạ tầng bên trong của mình để cung cấp các hệ thống linh hoạt hỗ trợ cho các nhu cầu Internet.



Thương mại điện tử giúp mang lại dịch vụ tốt hơn cho khách hàng

    Dịch vụ khách hàng có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những gì doanh nghiệp có thể và cần thiết làm để đáp ứng những nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, khách hàng ngày càng trở nên khó tính và tinh tế, do đó dịch vụ khách hàng thực sự trỏ thành yếu tố quan trọng đối với doanh nghiệp trong việc tìm và giữ khách hàng.

    Hiện nay, các doanh nghiệp đang tìm mọi cách để cung cấp dịch vụ khách hàng tốt nhất. Với những đặc trưng và lợi thế nổi bật của mình, thương mại điện tử mang lại cho doanh nghiệp các công cụ để làm hài lòng khách hàng.

Thương mại điện tử giúp mang lại dịch vụ tốt hơn cho khách hàng

    Thực vậy, với thương mại điện tử, doanh nghiệp có thể cung cấp Ca-ta-lô, thông tin, bảng báo giá cho đối tượng khách hàng một cách cực kỳ nhanh chóng, doanh nghiệp có thể tạo điều kiện cho khách hàng mua hàng trực tiếp từ trên mạng… Đây là điều trỏ nên ngày càng quan trọng, bởi trong thời đại ngày nay, yếu tố thòi gian thực sự là vàng bạc, không ai có đủ kiên nhẫn phải chờ đợi thông tin trong vài ngày.

    Ngoài ra, với thương mại điện tử, mọi thông tin về doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ đều được thường xuyên cập nhật tạo điều kiện cho khách hàng có thể nắm được những thông tin mối nhất. Đồng thòi, như đã đề cập, trong thương mại điện tử việc trao đổi, liên lạc giữa khách hàng và doanh nghiệp là rất tiện lợi và nhanh chóng. Đặc biệt, các thông tin phản hồi của khách hàng dễ dàng đến với doanh nghiệp hơn. Điều này làm cho khách hàng trỏ nên “gần gũi” hơn với doanh nghiệp và nhờ vậy họ sẽ hài lòng hơn.



Giảm thiểu chi phí nhờ Thương mại điện tử

o   Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị:

Trong thương mại điện tử, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng. Ca-ta-lô điện tử trên Web thì phong phú hơn nhiều và thường xuyên được cập nhật so với ca-ta-lô in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời. Theo số liệu của hãng Boeing (Mỹ), đã có tới 50% khách hàng đặt mua 9% phụ tùng qua Internet, mỗi ngày hãng giảm được 600 cuộc điện thoại.

o   Thương mại điện tử cũng giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch

(giao dịch được hiểu là từ quá trình quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng, giao dịch thanh toán): Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thòi gian giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0,5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng từ 10% đến 20% chi phí thanh toán theo lôi thông thường.

Giảm thiểu chi phí nhờ Thương mại điện tử

o   Giảm chi phí lưu kho:

Chi phí lưu kho là các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để duy trì một lượng hàng nhất định trong kho đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh hoạt động bình thường. Đưa ra những dự báo chính xác hơn về những gì bán được và không bán được có thể làm tăng vòng quay của hàng trong kho và giữ đúng loại hàng trong kho. Internet và các mạng riêng có thể được sử dụng để đảm bảo rằng thông tin được mang lại cho người cần nó và đúng lúc người ta cần nó. Rút ngắn chu kỳ kinh doanh cũng giúp giảm bớt mức độ kiểm kê hoá, cải thiện được tình trạng hàng tồn kho và loại bỏ được việc xuất hiện lệch kho.

o   Trong những yếu tố cắt giảm, yếu tố thời gian (chi phí cơ hội):

là đáng kể nhất, vì việc nhanh chóng làm cho thông tin hàng hóa tiếp cận người tiêu thụ (mà không phải qua trung gian) có ý nghĩa sống còn đối với buôn bán và cạnh tranh buôn bán. Ngoài ra, việc giao dịch nhanh chóng giúp doanh nghiệp sớm nắm bắt được nhu cầu của thị trường.


Đọc thêm tại:

Lợi ích của thương mại điện tử

Chỉ với một khoản tiền nhất định mỗi tháng, doanh nghiệp đã có thể đưa thông tin quảng cáo của mình đến với vài trăm triệu người xem từ các nơitrên thế giới. Đây là điều mà chỉ có thương mại điện tử làm được cho doanh nghiệp. Thử so sánh với một quảng cáo trên báo Tuổi Trẻ với vài triệu độc giả, mỗi lần quảng cáo doanh nghiệp phải trả ít nhất 50 đô-la Mỹ, còn nêu doanh nghiệp có một Website của mình, doanh nghiệp có thể quảng cáo thông tin 24 giờ mỗi ngày, 7 ngày mỗi tuần, và lượng độc giả của Website của doanh nghiệp là hàng trăm triệu người từ mọi nơi trên thế giới.

Chi phí cho Website của doanh nghiệp mỗi tháng ước tính (kinh tế nhất) là 10 đô-la Mỹ chi phí lưu trữ trực tuyến(1), 10 đến 20 đô-la Mỹ trả cho chi phí quảng cáo (liệt kê địa chỉ Web của doanh nghiệp trên một dạng danh bạ doanh nghiệp điện tử). Dĩ nhiên, đây chỉ là chi phí tối thiểu cho trang Web của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có khả năng tài chính, doanh nghiệp còn có thể thuê quảng cáo với chi phí cao hơn để mong quảng cáo tốt hơn.

Lợi ích của thương mại điện tử

Sử dụng thương mại điện tử sẽ làm giảm thời gian giao dịch, giảm thời gian thanh toán, giảm chi phí tờn kho và lượng hàng tờn kho… từ đó làm chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp được rút ngắn. Giúp cho doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh hơn, giảm thiểu được nhiều khoản chi phí. Khách hàng thì mua được hàng hoá với giá rẻ hơn, với thời gian giao nhận và thực hiện các giao dịch nhanh chóng thuận tiện.

Chi phí văn phòng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chi phí sản xuất của sản phẩm, dịch vụ. Việc giảm chi phí văn phòng theo nghĩa giảm thiểu các khâu in ấn giấy tờ, giảm thiểu số nhân viên văn phòng… cũng có nghĩa là giảm chi phí sản xuất sản phẩm, dịch vụ. Thực vậy, trong thương mại điện tử, người ta chỉ cần dùng các văn phòng, các cửa hàng ảo và không có giấy tờ (các Website).

Các văn phòng không giấy tờ này chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều so với các văn phòng truyền thống, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần (trong đó khâu in ấn hầu như được bỏ hẳn); theo số liệu của hãng General Electricity của Mỹ, tiết kiệm theo hướng này đạt tới 30%. Điều quan trọng hơn, với góc độ chiến lược, là các nhân viên của doanh nghiệp được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn và lâu dài.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: các loại hình thương mại điện tử, các mô hình thương mại điện tử 

Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp thu thập được nhiều thông tin

Khi nhà cung cấp nhận được đơn đặt hàng, chương trình máy tính có thể tự động bổ sung vào cơ sở dữ liệu của mình đơn chờ giải quyết,kiểm hàng trong kho, kiểm tra tình hình tín dụng của doanh nghiệp đặt hàng, đánh dấu các hạng mục có thể phân phát. Cũng chính chương trình này có thể tự động chuyển phiếu vận chuyển điện tử tới kho hàng gần nhất và viết hoá đơn. Nếu phải thuê vận chuyển ở ngoài, bên cung cấp có thể thông báo cho bên trung gian vận chuyển qua thư điện tử. Khi hàng đã được bên mua nhận đầy đủ, nhân viên kê toán của bên mua sẽ thông báo cho ngân hàng (bằng thư điện tử) chuyển trả số tiền thanh toán thích hợp cho bên bán.

Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp thu thập được nhiều thông tin

So sánh cách thức của thương mại truyền thống và thương mại điện tử trong việc đặt mua hàng thông qua ví dụ đơn giản trên tuy không đầy đủ nhưng đã giúp chúng ta thấy phần nào sự đơn giản hoá các hoạt động giao dịch truyền thống của các doanh nghiệp khi sử dụng thương mại điện tử. Rõ ràng, với thương mại điện tử, doanh nghiệp dù dưới góc độ là người mua hàng hay nhà cung cấp đều có thể tiết kiệm được rất nhiều thời gian và cả tiền bạc cho hoạt động giao dịch, kinh doanh của mình. Thương mại điện tử giúp các doanh nghiệp thu thập được nhiều thông tin về thị trường, đối tác kinh doanh. Các doanh nghiệp nắm được những thông tin phong phú về thị trường, nhờ đó có thể xây dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trưồng trong nước, khu vực và quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đôi với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện nay đang được nhiều nước quan tâm, coi là một trong những động lực phát triển kinh tế.

Ngoài ra, thương mại điện tử còn giúp doanh nghiệp thu thập được những thông tin phản hồi từ phía khách hàng. Ngày nay, các doanh nghiệp rất quan tâm đến thông tin phản hồi từ phía khách hàng và càng ngày họ càng xem các thông tin phản hồi từ phía khách hàng là nền tảng cho sự thay đổi, cải tiến nhằm phục vụ khách hàng tốt hơn. Trong thương mại truyền thông, quá trình thu thập thông tin phản hồi từ phía khách hàng thường phiền hà và diễn ra lâu hơn trong thương mại điện tử. Trong thương mại truyền thống, các doanh nghiệp phải cô’ gắng thu thập những thông tin này từ các đợt nghiên cứu, thăm dò ý kiến khách hàng hay qua những phiếu góp ý…

 Còn trong thương mại điện tử, các tính chất tương tác và việc dễ dàng truy nhập của Internet giúp cho các doanh nghiệp nhận được nhiều hơn các thông tin trực tiếp từ phía khách hàng. Một ví dụ đơn giản như nút “contact us” (Xin hãy liên lạc với chúng tôi) trên Website của các doanh nghiệp cho phép khách hàng dễ dàng cung cấp cho họ những thông tin phản hồi. Ngoài ra, các nhóm tin và các nhóm thảo luận trên Website cho phép doanh nghiệp có một sự hiểu biết về thị trường nói chung, một sản phẩm cụ thể nào đó hay ý kiến của khách hàng.



Đơn giản hoá hoạt động truyền thông

Để thấy được lợi ích này, chúng ta hãy xem xét một ví dụ thực tế các công đoạn mà một doanh nghiệp phải thực hiện khi nhân viên của họ muốn mua một sản phẩm hoặc tư liệu nào đó, chẳng hạn là một tủ hồ sơ. Ta sẽ xem xét doanh nghiệp này phải làm gì nếu họ thực hiện việc mua theo phương thức thương mại truyền thống và những gì họ phải làm trong thương mại điện tử.

Trong thương mại truyền thông, khi muôn mua một tủ hồ sơ, đầu tiên nhân viên đó phải đưa yêu cầu mua tủ hồ sơ (trong đó mô tả một vài đặc trưng của nó như: Số ngăn, kiểu khoá…), sau đó trình phê duyệt (thường là phải trải qua một hoặc hai cấp quản lý tuỳ theo giá trị của chiếc tủ đó). Yêu cầu này sau đó sẽ được chuyển tới bộ phận mua sắm vật tư mà ở đó một người có trách nhiệm sẽ phải kiểm tra và dựa vào các ca-ta-lô để chọn sản phẩm và nhà cung cấp phù hợp.

Đơn giản hoá hoạt động truyền thông

Giả sử doanh nghiệp đó không biết nơi cung cấp tin cậy, nhân viên mua sắm vật tư phải kiểm tra rấtnhiều ca-ta-lô và gọi điện cho nhà cung cấp để xác định rõ loại tủ cần mua. Khi một nhà cung cấp đã được chọn, nhân viên có thể soạn một đơn đặt hàng, sau đó Fax hoặc gửi thư đến nhà cung cấp (đặt hàng qua điện thoại có thể không được chấp nhận do thiếu tư cách pháp nhân là dấu và chữ ký, một yêu cầu quan trọng trong giao dịch dựa trên giấy).

Sau khi nhận được đơn đặt hàng, nhà cung cấp tiến hành xác định khả năng thanh toán của bên đặt hàng, kiểm kê sô lượnghàng trong kho, kiểm tra và lên kế hoạch vận chuyển từ một kho thích hợp với bên mua. Để có thể trả hàng theo đúng thời gian yêu cầu, nhà cung cấp viết phiếu vận chuyển, thông báo cho kho hàng và viết hoá đơn xuất hàng. Hoá đơn được gửi đi theo đường bưu điện hoặc giao tận tay người mua và hàng được xuất đi. Sau đó, bên mua sẽ thanh toán hoá đơn mua hàng cho bên bán.

Trong thương mại điện tử, nhân viên mua sắm vật tư sau khi nhận được chấp nhận yêu cầu mua tủ đã được duyệt của lãnh đạo sẽ duyệt các trang Web của các nhà cung cấp, chọn một mẫu tủ hồ sơ thích hợp với các dữ liệu đã có sẵn trong ca-ta-lô trực tuyến. Sau đó, anh ta sẽ dùng thư điện tử gửi yêu cầu sô” hoá (có thể có sẵn trên các Website của sản phẩm được chọn) tới người quản lý cấp trên để trình duyệt. Sau khi duyệt, người quản lý đó sẽ dùng thư điện tử chuyển tiếp yêu cầu tới bộ phận mua sắm vật tư; bộ phận này có thể sao chép các thông tin cần thiết vào trong cơ so dữ liệu đơn đặt hàng của họ, đồng thời gửi một đơn đặt hàng điện tử tới nhà cung cấp thông qua trao đổi dữ liệu điện tử hoặc một dạng tương tự và cũng có thể dùng thư điện tử.



Chuyển đổi cơ cấu doanh nghiệp, công nghệ

Chuyển đổi cơ cấu doanh nghiệp, công nghệ và quá trình thích ứng (Organizational Leaning)
      Những ứng dụng thương mại điện tử đặt ra yêu cầu cho các công ty phải nhanh chóng chuyển đổi công nghệ mới và những cơ hội thử nghiệm những sản phẩm và dịch vụ mới cũng như dây chuyền mới sao cho phù hợp và đáp ứng được thị trường.        Quá trình thích ứng có thể gắn liền những thay đổi trong hoạt động chiến lược cũng như cơ cấu tổ chức. Những thay đổi này có thể chuyển đối cách thức kinh doanh của doanh nghiệp.
       Theo Bloch 1996, nếu nhận định này đúng thì thương mại điện tử sẽ có những tác động lớn tới chiến lược kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Do đó, những doanh nghiệp này sẽ nhanh chóng nắm bắt được công nghệ. Đường cong kinh nghiệm trong chuyển giao công nghệ và vận dụng khả năng thiết lập lại môi quan hệ với khách hàng trong kinh doanh của doanh nghiệp vân còn nhiều trồ ngại, và không thể thực hiện nhanh chóng trong một khoảng thời gian ngắn. Đây là một quá trình tác động qua lại đời hỏi doanh nghiệp không ngừng đưa ra những khuyến nghị mối và thiết lập lại hệ thông thông tin phản hồi từ phía khách hàng. .
      Tương tự, các công nghệ mỗi đời hỏi các phương pháp tổ chức mói. Trong trường hợp công ty áp dụng thương mại điện tử, hệ thống tổ chức của công ty sẽ phải thay đổi để phù hợp với phương thức mới này, bao gồm các bộ phận bán hàng và tiếp thị v.v… Và để công ty có thể linh hoạt trong kinh doanh và thích ứng với thay đổi của thị trường, cần phải thiết lập một quy trình mối.

Chuyển đổi cơ cấu doanh nghiệp, công nghệ

Tác động lên sản xuất
      Thương mại điện tử tạo ra sự thay đổi trong hệ thống sản xuất, như từ mô hình sản xuất hàng loạt sang mô hình sản xuất theo nhu cầu thị trường, cũng như việc áp dụng các phương pháp kiểm soát như quản lý kịp thời (JIT). Ngoài ra, dây chuyền sản xuất còn hợp nhất với các bộ phận tài chính, tiếp thị và các bộ phận chức năng khác, cũng như các đối tác kinh doanh, khách hàng. Ví dụ trường hợp của công ty Intel, việc sử dụng hệ thông trang Web ERP (hỗ trợ bởi phần mềm như SAPRR3). Các đơn đặt hàng từ phía khách hàng sẽ được chuyển trực tiếp đến người sử dụng hệ thông thiết kế được hỗ trợ bởi máy tính và chuyển đến dây chuyền sản xuất chỉ trong vòng vài giây. Hay đối với các công ty chuyên lắp ráp các linh kiện được sản xuất từ rất nhiều nơi khác nhau, họ nhập các thiết bị từ các nhà cung cấp và có thể liên kết với một hay nhiều nhà sản xuất khác. Việc trao đổi thông tin hợp tác và phối hợp hoạt động trỏ thành những yếu tố quan trọng trong hệ thông liên kết. Sử dụng hệ thông mua bán bằng phương pháp điện tử, các công ty lắp ráp sẽ có được nguồn cung cấp rẻ và thuận tiện hơn. Hơn thế nữa, những hệ thống này rất linh hoạt và dễ thích ứng với thay đổi từ môi trường bên ngoài với một mức chi phí thấp và tối thiểu hoá các chi phí tờn kho trong hệ thống sản xuất.


Đọc thêm tại:

Mô hình giá động và mô hình mạng xã hội

Mô hình giá động (Dynamic-pricing Model)
Mô hình này sẽ mang lại lợi ích cho người sử dụng trong việc mua được một món hàng với giá rẻ nhất. Khách hàng có thể so sánh giá cả của các E-shop để khách hàng có thể mua hàng ở nơi rẻ nhất, có thể là họ gom nhiều người có cùng nhu cầu mua một loại sản phẩm lại để được hưởng ưu tiên mua sỉ với giá rẻ hơn… Thu nhập của các Website này chủ yếu là từ tiền của người bán.
Mô hình mạng xã hội
Mạng xã hội, hay còn gọi là mạng xã hội ảo, (social network) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thòi gian.
Mạng xã hội có những tính năng như trò chuyện (chat), thư điện tử (E-mail), tính năng phim ảnh, đàm thoại (voice chat), chia sẻ tệp tin (file sharing), trang tin cá nhân (blog) và xã luận. Mạng đổi mới hoàn toàn cách cư dân mạng liên kết với nhau và trở thành
một phần tất yếu mỗi ngày của hàng trăm triệu thành viên khắp thế giới. Qua các dịch vụ này, có nhiều phương cách để các thành viên tìm kiếm bạn bè, đối tác: dựa theo nhóm (group) (Ví dụ: Nhóm tên trường hoặc tên thành phố), dựa trên thông tin cá nhân như địa chỉ E-mail hoặc tên hiển thị (screen name), hoặc dựa trên sở thích cá nhân (Ví dụ: thể thao, phim ảnh, sách báo, hoặc ca nhạc), lĩnh vực quan tâm: kinh .doanh, mua bán…

Mô hình giá động và mô hình mạng xã hội

Hiện nay thế giới có hàng trăm mạng xã hội khác nhau, với MySpace và mạng Facebook nổi tiếng nhất trong thị trường Bắc Mỹ và Tây Âu; Orkut và HĨ5 tại Nam Mỹ; Friendster tại châu Á và các đảo quốc Thái Bình Dương. Một số mạng xã hội khác cũng gặt hái được thành công đáng kể theo vùng miền như Bebo tại Anh, CyWorld tại Hàn Quốc, Mixi tại Nhật Bản và tại Việt Nam xuất hiện rất nhiều các mạng xã hội như: Zing Me, YuMe, Tamtay…
sự xuất hiện của SixDegrees vào năm 1997 với mục đích giao lưu kết bạn dựa theo sở thích.
Năm 2002, Friendster trồ thành một trào lưu mối tại Hoa Kỳ với hàng triệu thành viên ghi danh. Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh này cũng là con dao hai lưõi: server của Friendster thường bị quá tải mỗi ngày, gây bất bình cho rất nhiều thành viên.
Năm 2004, MySpace ra đời với các tính năng như phim ảnh (embedded video) và nhanh chóng thu hút hàng chục ngàn thành viên mói mỗi ngày, các thành viên cũ của Friendster cũng lũ lượt chuyển qua MySpace, và trong vòng một năm, MySpace trỏ thành mạng xã hội đầu tiên có nhiều lượt truy cập hơn cả Google và được News Corporation mua lại với giá 580 triệu USD.
Năm 2006, sự ra đời của Facebook đánh dấu bưóc ngoặt mói cho hệ thông mạng xã hội trực tuyến với nền tảng lập trình “Facebook Platíorm” cho phép thành viên tạo ra những công cụ (apps) mới cho cá nhân mình cũng như các thành viên khác dùng. Facebook Platíorm nhanh chóng gặt hái được thành công vược bậc, mang lại hàng trăm tính năng mới cho Facebook và đóng góp không nhỏ cho con số trung bình 19 phút mà các thành viên truy cập trên trang này mỗi ngày.



Các chức năng của cổng thông tin

Xuất bản thông tin (Content syndication): Thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, cung cấp cho người dùng thông qua các phương pháp hoặc giao thức (protocol) một cách thích hợp. Một hệ thống xuất bản thông tin chuyên nghiệp phải có khả năng xuất bản thông tin với các định dạng đã được quy chuẩn, ví dụ như RDF (Resource Description Format), RSS (Rich Site Summary), NITF (News Industry Text Format) và NevvsXML. Ngoài ra, các tiêu chuẩn dựa trên XML cũng phải được áp dụng để quản trị và hiển
thị nội dung một cách thống nhất, xuyên suốt trong quá trình xuất bản thông tin. Các tiêu chuẩn dựa trên XML này cho phép đưa ra giải pháp nhanh nhất để khai thác và sử dụng thông tin trên các Website khác nhau thông qua quá trình thu thập và bóc tách thông tin với các định dạng đã được quy chuẩn.

Các chức năng của cổng thông tin

Hỗ trợ nhiều môi trường hiển thị thông tin (Multidevice support): Cho phép hiển thị cùng một nội dung thông tin trên nhiều loại thiết bị khác nhau như: Màn hình máy tính (PC), thiết bị di động (Mobile phone, Wireless phone, PDA), sử dụng để in hay cho bản Fax…. một cách tự động bằng cách xác định thiết bị hiển thị thông qua các thuộc tính khác nhau. Ví dụ: Cùng một nội dung đó, khi hiển thị trên màn hình máy tính thì sử dụng HTML, nhưng khi hệ thống xác định được thiết bị hiển thị là PDA hay Mobile phone, hệ thông sẽ loại bỏ các ảnh có trong nội dung và tự động chuyển nội dung đó sang định dạng WML (Wireless Markup Language) để phù hợp cho việc hiển thị trên màn hình của thiết bị di động.
Khả năng đăng nhập một lần (Single Sign On): cho phép dịch vụ xuất bản thông tin hoặc các dịch vụ khác của cổng thông tin tích hợp lấy thông tin về người dùng khi hoạt động mầ không phải yêu cầu người dùng phải đăng nhập lại mỗi khi có yêu cầu. Đây là một tính năng rất quan trọng vì các ứng dụng và dịch vụ trong cổng thông tin tích hợp sẽ phát triển một cách nhanh chóng khi xuất hiện nhu cầu, mà các ứng dụng và dịch vụ này tất yếu sẽ có các nhu cầu về xác thực hoặc truy xuất thông tin người dùng.
Quản trị cổng thông tin tích hợp (Portal administration): Xác định cách thức hiển thị thông tin cho người dùng cuối. Tính năng này không chỉ đơn giản là thiết lập các giao diện người dùng
với các chi tiết đồ họa (Iook-and-feel), với tính năng này, người quản trị phải định nghĩa được các thành phần thông tin, các kênh tương tác với người sử dụng cuối, định nghĩa nhóm người dùng cùng với các quyển truy cập và sử dụng thông tin khác nhau.
+ Quản trị người dùng (Portal User management): Cung cấp các khả năng quản trị người dùng cuối, tuỳ thuộc vào đối tượng sử dụng của cổng thông tin tích hợp. Tại đây, người sử dụng có thể tự đăng ký trỏ thành thành viên tại một cổng thông tin công cộng (như Yahoo, MSN…) hoặc được người quản trị tạo lập và gán quyền sử dụng tương ứng đối với các cổng thông tin doanh nghiệp. Mặt khác, tuỳ vào từng kiểu-cổng thông tin mà sổ lượng thành viên có thể từ vài nghìn tói hàng triệu.



Phân loại cổng thông tin

Phân loại cổng thông tin tích hợp
Cổng thông tin điện tử cung cấp cho người dùng cuối nhiều loại dịch vụ khác nhau với nhiều nhu cầu khác nhau, có thể phân loại các cổng thông tin tích hợp như sau:
+ Cổng thông tin công cộng (Publip portals): Ví dụ như Yahoo, loại cổng thông tin này thường được sử dụng để ghép nối các thông tin lại với nhau từ nhiều nguồn, nhiều ứng dụng và từ nhiều người, cho phép cá nhân hoá (personalization) các Website theo tùy từng đối tượng sử dụng.
+ Cổng thông tin doanh nghiệp (Enterprise portals hoặc “Corporate Desktops”): Được xây dựng để cho phép các thành viên của doanh nghiệp sử dụng và tương tác trên các thông tin và ứng dụng nghiệp vụ tác nghiệp của doanh nghiệp.
+ Cổng giao dịch điện tử (Marketplace portals); Ví dụ như eBay và ChemWeb, cổng thông tin này là nơi liên kết giữa người bán và người mua.

Phân loại cổng thông tin

+ Cổng thông tin ứng dụng chuyên biệt (Specialized portals): Ví dụ như SAP portal, cổng thông tin loại này cung cấp các ứng dụng chuyên biệt khác nhau.
Tuy có nhiều loại cổng thông tin tích hợp, cung cấp nhiều loại dịch vụ và ứng dụng khác nhau, nhưng tất cả các loại cổng thông tin tích hợp đều có chung một số tính năng. Các tính năng này là được sử dụng như một tiêu chuẩn để phân biệt giữa cổng thông tin điện tử tích hợp với một Website hoặc một ứng dụng chạy trên nền tảng Web. Các tính năng đó bao gồm:
+ Khả năng cá nhân hóa (Customization hay PersonaIization): Cho phép thiết đặt các thông tin khác nhau cho các loại đốì tượng sử dụng khác nhau theo yêu cầu. Tính năng này dựa trên hoạt động thu thập thông tin về người dùng và cộng đồng người dùng, từ đó cung cấp các thông tin chính xác tại thời điểm được yêu cầu.
+ Tích hợp và liên kết nhiều loại thông tin (Content aggregation): Cho phép xây dựng nội dung thông tin từ nhiều nguồn khác nhau cho nhiều đối tượng sử dụng. Sự khác biệt giữa các nội dung thông tin sẽ được xác định qua các ngữ cảnh hoạt động của người dùng (user-specific context), ví dụ như đối với từng đối tượng sử dụng sau khi thông qua quá trình xác thực thì sẽ được cung cấp các thông tin khác nhau, hoặc nội dung thông tin sẽ được cung cấp khác nhau trong quá trình cá nhân hoá thông tin.



Được tạo bởi Blogger.